Cá tra

Cá tra theo từ điển tiếng Việt, nxb Khoa Học Xã Hội, 1977, là loài cá nước ngọt, không vảy, giống cá trê nhưng không ngạnh.Sự so sánh giữa cá tra và cá trê càng thêm tối nghĩa vì hai nhóm cá này có nhiều điểm khác biệt. Ngoài ra trong phân loại khoa học chúng thuộc hai họ khác nhau.

Cá tra: tên gọi một họ, một chi và một số loài cá nước ngọt. Ở Việt Nam, cá tra sống chủ yếu trong lưu vực sông Cửu Long và lưu vực các sông lớn cực nam, có thân dẹp, da trơn, có râu ngắn.

Cá tra thuộc họ Pangasiidae. Họ Pangasiidae (họ cá tra) theo ITIS và Wikipedia tiếng Pháp có 3 chi: chi Sinopangasius (1 loài), chi Helicophagus (3 loài) và chi Pangasius (27 loài). Tuy nhiên, chi và loài Sinopangasius, theo vài tài liệu như FishBase và một số bảng từ đồng nghĩa, được coi là từ đồng nghĩa của Pangasius kempfi (cá bông lau). Ngoài ra trong chi Pangasius, trong 2 bảng phân loại khoa học nêu trên có 3 cặp tên đồng nghĩa. Như vậy, có thể kể họ Pangasiidae có 2 chi và chi Pangasius có 24 loài.

Ở Việt Nam

Cá thuộc họ Pangasiidae (họ cá tra) với tên Việt có những loài sau:

  • Helicophagus waandersii - Cá tra chuột
  • Pangasius gigas - Cá tra dầu
  • Pangasius kunyit - Cá tra bần
  • Pangasius hypophthalmus - Cá tra nuôi
  • Pangasius micronema - Cá tra
  • Pangasius larnaudii - Cá vồ đém
  • Pangasius sanitwongsei - Cá vồ cờ
  • Pangasius bocourti - Cá xác bụng (cá ba sa)
  • Pangasius macronema - Cá xác sọc
  • Pangasius pleurotaenia - Cá xác bầu
  • Pangasius conchophilus - Cá hú
  • Pangasius polyuranodon - Cá dứa
  • Pangasius krempfi - Cá bông lau

Trong 13 loài trên có 12 loài thuộc chi Pangasius và 1 loài thuộc chi Helicophasus. Ngoại trừ 3 loài: cá hú, cá dứa và cá bông lau, những loài cá trong họ cá tra có 3 nhóm: nhóm cá tra, nhóm cá vồ và nhóm cá xác.

Trở về nguồn gốc tên Việt của 3 nhóm cá này: tên cả 3 nhóm đều thuộc vào từ ngữ vay mượn từ ngôn ngữ Khmer : cá tra từ chữ trey pra, cá vồ từ chữ trey po và cá xác từ trey chhwaet. Còn ba loài còn lại thì cá hú trong tiếng Khmer thuộc trey pra (cá tra) và cá dứa được gọi là trey chhwaet (cá xác). Chỉ còn lại cá bông lau, tiếng Khmer gọi là trey bong lao.

Tuy còn nhiều điểm chưa thống nhất giữa hai ngôn ngữ Việt-Khmer, nhưng việc gọi tên từng nhóm cá của người Khmer và người Việt đã khơi mào cho vấn đề đặt tên phân chi cho chi Pangasius. Ở đây, hy vọng các chuyên gia sẽ đi vào chi tiết từng loài của họ cá này và từ đó tìm câu trả lời, có nên đặt tên phân chi hay không.

Trong số 13 loại này, có hai loài cá đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Loài cá vồ cờ (Pangasius sanitwongsei) được ghi tên trong sách đỏ từ năm 1996. Loài cá tra dầu (Pangasius gigas) có tên trong sách đỏ từ năm 2002.

DH lược trích từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Các tin khác cùng chuyên mục
Lựa chọn mồi câu cá Ngừ - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:35:58 CH
Câu rắn, lươn độ nhật - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:33:50 CH
Các loại lưỡi câu lục phần I - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:33:09 CH
Cách buộc nối dây thông dụng Phần I - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:32:11 CH
Cách phân biệt các phần của lưỡi câu - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:31:17 CH
Sự thật về “Hồ không đáy” ở Serbia - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:30:19 CH
Jacke - Huyền thoại người cá sấu - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:29:03 CH
Bờ hồ ký sự - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:28:00 CH
Âm thanh đa dạng của các loài cá - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:26:56 CH
Cá vược (Chẽm) - Cập nhật lần cuối 24/05/2009 2:26:05 CH
Website hữu ích
Website liên kết
Mua 1 cần Tenryu, tặng 1 dây Tenryu
 
Diễn đàn câu cá 4so9
 Đồ câu nội địa Nhật bản
Diễn đàn Vietnam Angling
Trang chủ
Thư viện HFC
Video Clip
Thư viện ảnh
Thông báo từ ban chủ nhiệm
HanoiFishing
Diễn đàn
© HanoiFishing.com - Ghi rõ nguồn nếu phát hành lại thông tin từ website này.