Đã gần hai tháng, mặc dầu chưa ổn định được chỗ ở, ba Điền vẫn quyết đưa con đến trường. Mấy ngày đầu nhập học, Điền rất bận rộn và không ít bỡ ngỡ. Mọi thứ đều xa lạ đối với nó: lạ trường, lạ lớp, lạ thầy, lạ bạn. Điền cảm thấy vô cùng ngao ngán trước cuộc sống mới này. Ở chợ có biết bao điều hay, bao nhiêu tiện nghi, nhưng Điền vẫn nhớ đồng, nhớ những hình ảnh, những sinh hoạt mà nó đã quen thuộc từ nhỏ tới giờ.
Điền làm sao quên được cảnh đông vui khi bắt đầu vào mùa dọn đất. Mới ba, bốn giờ khuya, nó đã nghe tiếng tù và tu tu của vạn phát. Mọi người thức giấc kéo nhau ra đồng. Ai nấy đầu bịt kín, phảng trên vai, nối nhau đi trên con đê dài. Những cái bóng đen lù lù như một đoàn tàu hỏa nhả khói (thuốc) vừa cho ấm người, vừa xua đuổi muỗi mòng... Chập trưa các bà các cô đội cơm ra đồng. Hoạt cảnh bây giờ rộn rã tiếng cười nói thật là vui vẻ. Thuở đó ruộng không sạ giống như bây giờ. Người ta nhổ mạ cấy giâm rồi bứng lúa giâm xếp đẩy xuồng, lại đẩy xuồng lúa đem rải xa xa trên cánh đồng loáng nước vừa mới dọn sạch. Điền chưa rành cấy bằng nọc nên chỉ thích lấy lúa giâm phân phối cho các bà các cô. Người nào người nấy khom lưng, hai tay thoăn thoắt, vừa xé lúa vừa cấy thật ngay hàng thẳng lối. Bà nào, cô nào trên đỉnh cây nọc cũng quệt sẵn một cục vôi ăn trầu. Mỗi khi bị đỉa đeo cắn, họ dùng vôi bắt đỉa và liệng thẳng tay ra ngoài xa. Chẳng mấy chốc thửa ruộng đã thành. Điền nhìn màu xanh phơn phớt của lúa non, cảm thấy thích thú vô cùng.
Hết mùa cấy tới giai đoạn đặt lờ, cắm câu, giăng lưới, đặt trúm. Niềm đam mê này dân ở chợ cũng không thể có được. Tùy chỗ rộng thoáng, Điền đặt lờ bóng (4 hom), và theo đường cá chạy trong cỏ, đặt lờ bánh ú (2 hom). Lờ chủ yếu bắt cá sặt. Nó cũng sắm thêm năm ba chục cần câu để đi cắm rải rác trên đồng. Khoái nhất là khi tới thăm, nó thấy cần câu bị cá kéo nằm liệt, giật giật... Cá lóc, cá trê, rắn, lươn đều có thể mắc câu như thường. Những tay lưới dùng để bắt cá rô là hay nhất. Ống trúm làm bằng tre gai, có hom ở miệng, lỗ hơi trên cùng và phải để mồi thơm trong ống nhử lươn.
Điền làm sao quên được bầu trời chiều mát rượi, cánh đồng mênh mông khi mùa gặt lúa đã xong. Nó cùng thằng Được, thằng Cưỡng làm xe hai bánh có gọng như xe trâu rồi chất đầy rau đắng, bắt con chó nhà kéo dài dài trên con đường mòn giữa ruộng khô. Khi thằng Được đánh trâu về chuồng cho chủ, chỉ còn nó với thằng Cưỡng ngao du, rượt đuổi nhau rồi nằm ngửa nhìn trời chiều lặng lẽ. Gió nhè nhẹ. Những đàn cò trắng từ đâu, chắp cánh bay về rừng U Minh, xa dần xa dần rồi mất hút về phía chân trời phương Nam. Có con chim chàng bè to tướng với bộ lông xám mốc, cái mỏ dài, bay thật thấp và nặng nề về ngọn cây ngô đồng ở cuối đất nhà Điền để đậu ngủ.
Nỗi nhớ của Điền càng da diết hơn khi nó nghĩ đến mùa bắt cá cạn. Những ngày cận Tết nước đổ ra sông. Nhiều con cá lóc cứ ở lì dưới đám lục bình, cỏ rậm trong lung, bàu hay đìa lạng. Điền thường theo người lớn đi xom. Mỗi người vai quẩy giỏ, tay cầm chĩa ba (mũi) xom xom vào vùng rậm cỏ còn đọng nước. Khi trúng cá thì vạch cỏ mà bắt. Điền sợ nhất là lúc gặp phải rắn. Dần dần nó học được kinh nghiệm của ba nó: nếu xom trúng cá nó quậy thật mạnh; nhằm rùa thì nghe đánh cộp một cái; còn dính rắn, nó vặn vẹo mũi chĩa rất dữ, phải dùng móc sắt kéo lên. Ở bàu cạn, người ta chỉ kéo vạch cỏ mà bắt cá.
Mùa nước nổi lươn sống và sinh sản khắp đồng. Tới khi nước rút ra sông, lươn tìm bất cứ hang hoặc kẽ nào để chui sâu vào lòng đất, nếu không tập trung xuống kinh, đìa... Thường sau mùa gặt nông dân đốt đồng. Khi mưa rớt vài đám, độ mặn của tro và phèn trong đất tăng cao. Lươn theo đường cũ hoặc ngõ ngách trồi lên. Nước mưa chỉ còn xăm xắp mắt cá chân. Gặp phải cái nắng cuối hạ, nước nóng như sôi, “bạn” lươn đứa thì chết, đứa thì đỏ mình, nằm vật vờ khắp đó đây. Điền chỉ cần lượm bỏ vào giỏ.
Càng nghĩ tới nếp sống ở đồng quê mình, Điền càng nhớ tiếc hơn. Nó nhớ đến cồn cào cả ruột gan, nhớ đến mất ăn mất ngủ.
ST